Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho đội ngũ dạy kỹ năng sống cho học sinh ở Trường Tiểu học Khúc Xuyên, Thành phố Bắc Ninh
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho đội ngũ dạy kỹ năng sống cho học sinh ở Trường Tiểu học Khúc Xuyên, Thành phố Bắc Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_c.doc
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho đội ngũ dạy kỹ năng sống cho học sinh ở Trường Tiểu học Khúc Xuyên, Thành phố Bắc Ninh
- PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến 1.1. Lý do chọn đề tài Đất nước đang bước vào hội nhập, việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ quan trọng của ngành GDĐT. Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT” của Bộ GDĐT đã khẳng định: Đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục có vai trò quyết định chất lượng giáo dục, trong đó đội ngũ GV ở các nhà trường nói chung và trong trường tiểu học nói riêng quyết định trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI xác định: “Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế QLGD, phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng nhà giáo và CBQL giáo dục đã chỉ rõ: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục theo hướng Chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng ta đã xác định: “Để bảo đảm chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo” và để có sự chuyển biến căn bản trong đội ngũ thầy giáo thì phải: “Đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng GV, sử dụng GV đúng năng lực, đãi ngộ đúng công sức và tài năng, với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học”. Luật Giáo dục khẳng định: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đào tạo”. Vị trí vai trò của đội ngũ nhà giáo luôn được Đảng, Nhà nước, xã hội quan tâm và tôn vinh. Vì vậy, xây dựng và phát triển đội ngũ GV là nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục và của tất cả các nhà trường. Tiểu học là cấp học rất quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Để đạt mục tiêu trên, phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV tiểu học và công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở bậc học này. Trong
- 2 những năm qua, đội ngũ GV tiểu học có sự phát triển về mặt chất lượng và số lượng, đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Bối cảnh hiện nay đặt ra nhiều thách thức đối với việc giáo dục HS và giáo dục KNS cho HS. Việt Nam tiến hành đổi mới giáo dục để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, giáo dục KNS và quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS là yêu cầu cấp thiết. Bộ GDĐT đã đưa giáo dục KNS lồng ghép vào các hoạt động dạy học và giáo dục từ năm học 2010 - 2011. Tuy nhiên, việc quản lý, triển khai giáo dục KNS còn nhiều bất cập. Bất cập hơn cả là chưa có đội ngũ GV dạy chuyên trách môn KNS mặc dù đã có môn KNS riêng nhưng GV dạy chưa được qua đào tạo hay bồi dưỡng và trên thực tế không phải tất cả GV đều có nhận thức đúng về môn học này. Bắc Ninh là một thành phố “đáng sống”, Bắc Ninh đã tạo ra môi trường sống, môi trường học tập của HS hiện nay rất đa dạng và KNS của HS Bắc Ninh mang đặc điểm KNS riêng đậm đà vùng Kinh Bắc. Trong những năm qua, hoạt động bồi dưỡng GV dạy KNS cho HS ở các trường tiểu học thành phố Bắc Ninh luôn được Ban giám hiệu các nhà trường quan tâm. Tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong GV, đồng thời nâng cao công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng GV dạy KNS cho HS tiểu học là đòi hỏi thực tiễn và yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ những yêu cầu cả về mặt lý luận và thực tiễn, với tư cách là cán bộ quản lý ở trường tiểu học, đồng thời với mong muốn làm thế nào để có thể nâng cao chất lượng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở ngôi trường nơi tôi đang công tác cũng như ở các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tôi đã lựa chọn Sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho đội ngũ dạy kỹ năng sống cho học sinh ở Trường Tiểu học Khúc Xuyên, Thành phố Bắc Ninh” để nghiên cứu, mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy KNS cho GV trong nhà trường, từ đó giúp HS có những kỹ năng cơ bản nhất để vận dụng vào cuộc sống. 1.2. Mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu, đối tượng khảo sát, nhiệm vụ, phạm vi và thời gian thực hiện 1.2.1. Mục đích:
- 3 Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh để từ đó đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở trường tiểu học, thành phố Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 1.2.2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đối tượng khảo sát: a. Đối tượng: Quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. b. Phương pháp nghiên cứu: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các quyết định quản lý, các tài liệu văn bản, các kế hoạch hoạt động, báo cáo tổng kết công tác quản lý chuyên môn của nhà trường, của Phòng GDĐT và kế hoạch giáo án của GV. Thu thập các tài liệu liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, phân tích, phân loại, xác định các khái niệm cơ bản; đọc sách, tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan để hình thành cơ sở lý luận cho Sáng kiến. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng bảng hỏi, phiếu trưng cầu gồm các câu hỏi đóng/mở về vấn đề hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS, quản lý hoạt động bồi dưỡng GV dạy KNS. Phương pháp quan sát: Quan sát các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS ở trường Tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. c. Đối tượng khảo sát: HS, GV và Ban giám hiệu trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. 1.2.3. Nhiệm vụ, phạm vi và thời gian thực hiện: a. Nhiệm vụ: Xác định khung lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu, cụ thể là: xác định rõ nội hàm của các khái niệm cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu Sáng kiến như KNS, giáo dục KNS, hoạt động giáo dục, hoạt động giáo dục KNS, quản lý hoạt động giáo dục và quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS; xác định rõ các thành tố cấu trúc của quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở trường tiểu học; xác định cụ thể các mục tiêu của quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học để xây dựng nội dung của quản lý hoạt động
- 4 giáo dục; từ đó thiết lập mối quan hệ giữa nội dung này với các thành tố cấu trúc của quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS. Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS và thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS; thiết kế quy trình, xây dựng công cụ và phương pháp để khảo sát thực trạng; xác định cụ thể những vấn đề cần phải giải quyết trong quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS ở trường tiểu học Khúc Xuyên hiện nay. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS ở trường tiểu học nhằm giải quyết những tồn tại trong quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS ở trường tiểu học Khúc Xuyên và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy KNS ở các trường tiểu học thành phố Bắc Ninh. b. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Sáng kiến tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS. Nghiên cứu thực tiễn với trường hợp điển hình là trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. Thời gian thực hiện từ tháng 9/2019 đến 3/2021. 2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến 2.1. Tính mới của sáng kiến với các biện pháp được trình bày Nâng cao chất lượng đội ngũ GV dạy KNS cho HS trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. Đồng thời phân loại được chất lượng GV để từ đó có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng giảng dạy KNS của GV. Đề xuất được các biện pháp có tính tích cực, khả thi để nâng cao chất lượng chuyên môn của GV trong nhà trường. 100% GV được bồi dưỡng thường xuyên và bồi dưỡng định kì nhằm nâng cao trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn. 2.2. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến được áp dụng vào thực tiễn tại đơn vị Tạo sự thay đổi theo hướng tích cực hơn, hiệu quả hơn trong dạy kỹ năng sống cho học sinh trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh.
- 5 Bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS nhà trường thực sự là một hoạt động hữu hiệu bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho GV góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ năm học. Những biện pháp khả thi có thể vận dụng vào thực tiễn, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của GV nhằm góp phần bồi dưỡng GV theo Chuẩn nghề nghiệp GV Tiểu học. 3. Đóng góp của sáng kiến 3.1. Về lý luận Xây dựng cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở các trường tiểu học. 3.2. Về thực tiễn Phát hiện được những vấn đề cần giải quyết trong quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS ở trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng GV dạy KNS ở trường tiểu học Khúc Xuyên nói riêng và các trường tiểu học thành phố Bắc Ninh nói chung trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Kết quả nghiên cứu của Sáng kiến có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong bồi dưỡng GV về giáo dục KNS cho HS; bồi dưỡng cho CBQL, GV ở trường tiểu học.
- 6 PHẦN 2. NỘI DUNG Chương 1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC KHÚC XUYÊN, THÀNH PHỐ BẮC NINH 1. Cơ sở lý luận Tại Hội nghị lần thứ 8 Khóa XI, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung: Đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GDĐT; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu cụ thể cho từng cấp học. Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Để đạt được các mục tiêu đó, chúng ta cũng có hệ thống các giải pháp tương ứng. Trong số các giải pháp mà Nghị quyết số 29 đề ra, có 1 giải pháp được xem như là giải pháp đột phá giúp cho nền giáo dục Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ, đó là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
- 7 Tổ chức văn hóa khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra nguyên tắc cơ bản để định hướng giáo dục KNS trong thực tiễn: “Tất cả thế hệ trẻ và người lớn có quyền hưởng lợi từ một nền giáo dục chứa đựng các hợp phần học để biết, học để làm, học để chung sống với mọi người và học để khẳng định mình. Giáo dục hướng vào yêu cầu bồi dưỡng năng khiếu tiềm năng và phát triển cá tính người học cần quan tâm kết hợp kỹ năng thực hành và các khả năng tâm lý xã hội, đánh giá chất lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các KNS và tác dụng của KNS đối với xã hội và cá nhân”. Bộ GDĐT đã cho xuất bản các tập giáo trình Giáo dục KNS ở tiểu học (lớp 1, 2, 3, 4, 5) và tài liệu tham khảo giáo dục KNS cho HS tiểu học - Tài liệu hướng dẫn GV. Đây là những tập tài liệu hết sức quan trọng để bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học. Sở GDĐT Bắc Ninh, Phòng GDĐT thành phố Bắc Ninh cũng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các nhà trường thực hiện hiệu quả dạy kỹ năng sống cho HS đảm bảo phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục. Những quan điểm, định hướng nêu trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục Tiểu học nói chung, đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học. 2. Cơ sở thực tiễn Ở Việt Nam, từ năm học 2008 - 2009, Bộ GDĐT đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của HS trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Từ năm học 2010 - 2011, Bộ GDĐT đã đưa giáo dục KNS lồng ghép vào các hoạt động giáo dục và từ năm học 2020 - 2021 Chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học; đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; đổi mới phương pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá; công tác chỉ đạo,
- 8 quản lý hoạt động dạy học, giáo dục. Tất cả những điều này khẳng định ngành giáo dục đã rất quan tâm và đề cao giáo dục KNS cho HS. Sự thay đổi thể hiện chuyển từ coi trọng truyền thụ kiến thức sang giáo dục nhân cách công dân, đồng thời phát huy tốt nhất tiềm năng của người học. Thực tế trước đây, trong giáo dục, chủ yếu cố gắng đưa thật nhiều tri thức khoa học vào nội dung cần dạy và người dạy “truyền thụ một chiều” để trong thời gian hạn chế vẫn chuyển tải được nhiều kiến thức đến người học, dẫn đến việc học trở thành nặng nề, quá tải. Quá trình dạy học cần coi trọng đồng thời cả hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm để hình thành và phát triển ở người học năng lực tư duy độc lập, vận dụng tổng hợp và linh hoạt tri thức để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và cuộc sống. Đối với giáo viên tiểu học thường tập trung lo lắng cho những em có những vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những lớp đầu tiên (lớp 1) trẻ đến trường. Đơn giản là vì những HS này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho HS không thể tập trung lĩnh hội những điều GV dạy. Vì vậy, GV phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư để giúp HS có được những kĩ năng sống cơ bản ở trường Tiểu học. Trong cuộc sống khi thiếu nền tảng giá trị sống vững chắc con người rất dễ bị ảnh hưởng bởi những giá trị vật chất và rồi mau chóng định hình chúng thành mục đích sống, đôi khi đưa đến kiểu hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác, vị kỷ cá nhân. Không có nền tảng giá trị sống chúng ta sẽ không biết cách tôn trọng bản thân và người khác, không biết cách hợp tác, không biết cách xây dựng tình đoàn kết trong mối quan hệ, không biết cách thích ứng trước những đổi thay vì vậy cần giáo dục giá trị sống, KNS cho HS, giúp các em nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa các giải pháp khác nhau, quyết định phải xuất phát từ HS. HS phải tham gia chủ động vào các hoạt động. 3. Khái niệm cơ bản Kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của KNS là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng
- 9 ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống có mục tiêu chính là làm thay đổi hành vi của người học từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực chuyển thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển bền vững cho xã hội. 4. Nhà trường Tiểu học trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay 4.1. Đặc trưng của nhà trường tiểu học “Trường tiểu học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng”. Trường tiểu học có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định đầy đủ tại Điều lệ trường Tiểu học. 4.2. Yêu cầu của đổi mới giáo dục và vấn đề dạy KNS cho HS tiểu học a. Những yêu cầu chung của đổi mới giáo dục và vấn đề dạy KNS cho HS tiểu học: Trước những yêu cầu của xã hội, trước những thách thức của xu thế toàn cầu hóa, việc đổi mới giáo dục phổ thông trong đó có đổi mới giáo dục tiểu học bao gồm đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của HS có ý nghĩa thời sự và tầm quan trọng to lớn. Đổi mới giáo dục không còn là công việc riêng của mỗi quốc gia đơn lẻ mà đang trở thành mối quan tâm chung của mọi quốc gia trước những thách thức của giai đoạn phát triển mới. Theo Luật Giáo dục, mục tiêu của Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để hs tiếp tục học trung học cơ sở. Với mục tiêu trên, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục tiểu học thể hiện ở việc phải bảo đảm cho HS có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật. b. Mục tiêu của đổi mới giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học: Trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp, trên cơ sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh tích cực, loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt
- 10 động hằng ngày. Chuyển dịch kiến thức, thái độ và giá trị thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả năng thực tế theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình; phát triển hài hòa, toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. 5. Thực trạng đội ngũ giáo viên và học sinh nhà trường 5.1. Đội ngũ Năm học 2020 - 2021, nhà trường có tổng số cán bộ, GV, nhân viên là 21 đồng chí và được chia làm 3 tổ (Tổ chuyên môn 1+2+3; Tổ chuyên môn 4+5; Tổ Văn phòng), trong đó: Chia theo trình độ đào tạo Chia theo độ tuổi Tổng STT Đội ngũ Nữ số Cao Dưới Từ 30 Từ 40 Trên Thạc sỹ Đại học đẳng 30 đến 40 đến 50 50 1 CBQL 2 1 1 1 2 2 GV Văn hóa 11 11 11 2 2 5 2 3 GV bộ môn 5 5 4 1 1 2 2 4 Nhân viên 3 2 3 2 1 Cộng 21 19 1 19 1 3 6 9 3 Đội ngũ GV của nhà trường được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, nhiệt tình và trách nhiệm trong các hoạt động giáo dục. Các đồng chí GV dạy văn hóa và 02 đồng chí trong ban giám hiệu đã được Công ty Thiên Tường bồi dưỡng, đào tạo “Phương pháp và kỹ năng giảng dạy kỹ năng sống” và được cấp chứng chỉ dạy KNS. 5.2. Học sinh Nhà trường có 366 HS được chia thành 10 lớp (Khối 1 - 2 lớp, 72 HS; Khối 2 - 2 lớp, 75HS; Khối 3 - 2 lớp, 88HS; Khối 4 - 2 lớp, 59HS; K5 - 2 lớp, 72HS). Các em ngoan ngoãn, chăm chỉ và mạnh dạn tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục trong nhà trường. 6. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Khúc Xuyên 6.1. Hình thức dạy KNS trong trường tiểu học và đặc điểm đội ngũ dạy KNS
- 11 Hiện nay có bốn hình thức dạy KNS phổ biến mà các trường tiểu học đang tiến hành. Ðầu tiên là tổ chức những buổi nói chuyện có tính chất thời sự; Thứ hai là hình thức “nhập khẩu một chương trình KNS có bản quyền từ nước ngoài”, dịch và Việt hóa để tiến hành giảng dạy độc lập; Thứ ba, đội ngũ GV dạy KNS trong các trường tiểu học kết hợp với một đơn vị chuyên dạy KNS bên ngoài và ký hợp đồng dạy theo thời khóa biểu của trường; Hình thức thứ tư là sử dụng một chương trình giảng dạy KNS, tích hợp chương trình này trong các hoạt động giảng dạy và học tập của trường, từ việc tạo môi trường giáo dục đến các hình thức dạy và học, phương pháp dạy và học thể hiện các kỹ năng mà chương trình KNS này đang lồng ghép. Đối với trường tiểu học Khúc Xuyên đang tiến hành theo ba hình thức: Ðầu tiên là tổ chức những buổi nói chuyện có tính chất thời sự hầu như được lồng ghép trong các giờ chào cờ và các buổi hoạt động trải nghiệm; Thứ hai, nhà trường kết hợp với công ty Thiên Tường, ký hợp đồng dạy theo thời khóa biểu của trường; Hình thức thứ ba là lồng ghép trong các hoạt động giảng dạy và học tập của trường. Đội ngũ GV dạy các em kỹ năng làm việc, chung sống với người khác bằng hàng loạt sáng kiến tương đối hấp dẫn như kỹ năng thuyết phục người khác, kỹ năng kết bạn và nuôi dưỡng tình bạn, kỹ năng giải quyết xung đột, Tuy nhiên, trước khi học cách làm việc, chung sống với mọi người, GV cần trang bị cho các em các kỹ năng hiểu chính mình. Các em cần biết mình là ai, điểm mạnh, điểm yếu của mình là gì, khi mình giận dữ thì xử lý thế nào, Khi giảng dạy KNS, ngoài việc cung cấp kỹ năng rất cụ thể, GV đã chú trọng việc thực hành khái niệm cho HS. Do đó học xong, các em mới có thể ứng dụng kỹ năng được học một cách linh hoạt. Ví dụ: khi trang bị cho trẻ kỹ năng chống xâm hại tình dục, GV dạy trẻ các kỹ năng cụ thể để ứng phó với đụng chạm an toàn, đụng chạm không an toàn; bí mật an toàn, bí mật không an toàn, Vì thế, GV cần hình thành nên các khái niệm trước: cơ thể trẻ là của trẻ; không ai có quyền làm đau nó, làm tổn thương nó; trẻ phải yêu thương, tôn trọng cơ thể mình. GV dạy KNS cho HS tiểu học là một hành trình tác động vào nhận thức, cung cấp công cụ để giúp HS thay đổi hành vi và hình thành thói quen tích cực. Không được lấy “những giọt nước mắt” của người dạy lẫn người học để đo “sự thành công của bài học”; “bài học nào có nhiều em khóc, khóc nhiều thì bài học đó mới thành
- 12 công ?”. GV không được tìm mọi cách thao túng cảm xúc của người học và để người học chơi trong cảm xúc hối hận, tội lỗi, Chúng ta tàn nhẫn kết thúc bài học ở mức độ tác động nhận thức theo kiểu thao túng cảm xúc của các em HS. Công cụ không trao thì các em sẽ thấy bản thân mình tệ hơn. Vậy, GV phải trao công cụ và dạy các em cách sử dụng; kiên định với việc sử dụng công cụ nhằm thay đổi hành vi, từ đó mới hình thành thói quen. Có như thế, việc dạy KNS cho các em HS tiểu học của đội ngũ GV mới thành công. 6.2. Đội ngũ GV giảng dạy kỹ năng sống được chuẩn hóa Khi giảng dạy KNS cho HS, điều kiện cần và đủ là GV phải được chuẩn hóa, đào tạo bài bản về KNS. Tránh tình trạng GV vừa yếu vừa thiếu KNS. Ðể làm được điều này, nhà trường luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV này một cách chuyên nghiệp, hiệu quả. Riêng đối với HS, nhà trường quán triệt đội ngũ GV dạy KNS cần dạy những kiến thức cần thiết, phù hợp với lứa tuổi HS tiểu học để có thể vận dụng được hằng ngày. Tránh tình trạng “ép chín” khi HS phải tiếp nhận những kiến thức xa vời với tâm sinh lý lứa tuổi, dẫn đến không áp dụng được. Mà một khi không thực hành, áp dụng được thì không hình thành nên thói quen, hành động, kỹ năng của các em. 6.3. Chương trình giảng dạy KNS cho HS được chuẩn hóa, phù hợp, thống nhất Chương trình giảng dạy KNS cho HS phải được chuẩn hóa và thống nhất. Chương trình phải đúng như cam kết, phù hợp với quy định và được công khai để CMHS giám sát, phản ánh. Không ôm đồm và không ép buộc CMHS. Nội dung dạy KNS của nhà trường theo phân phối chương trình do các cấp quản lý ngành giáo dục quy định và nội dung giáo dục KNS do công ty Thiên Tường cung cấp luôn đảm bảo nội dung các chuyên đề KNS phong phú, hấp dẫn, linh hoạt hình thức tổ chức. Với các buổi học KNS bằng hình thức dã ngoại, GV phụ trách đi kèm và tổ chức thành nhiều đợt, mỗi đợt số lượng vừa đủ để HS được trải nghiệm thật sự, HS vừa được quan sát vừa được thực hành. 7. Kết luận Những nghiên cứu lý luận nêu trên là cơ sở để khẳng định tầm quan trọng của việc bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS trường tiểu học. Kỹ năng sống, nhân
- 13 tố cần thiết trong hình thành, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, giúp các em có kinh nghiệm ứng xử phù hợp. Nó là thước đo của sự phát triển toàn diện đức - trí - thể - mỹ của HS, là thước đo sự quan tâm giáo dục của nhà trường đối với thế hệ trẻ của đất nước. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS trường tiểu học đạt hiệu quả cao? Muốn vậy cần những điều kiện nào để nó đạt hiệu quả? Phải chăng hoạt động quản lý của các nhà quản lý ở trường tiểu học về công tác này sẽ là điều kiện tiên quyết? Nếu đúng vậy họ cần phải có các biện pháp quản lý phù hợp mới có thể thực hiện có kết quả bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS trường tiểu học trong xã hội hiện nay. Những nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn và thực trạng đã được trình bày ở trên là cơ sở đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng cho đội ngũ GV dạy KNS cho HS trường tiểu học Khúc Xuyên nói riêng và các trường tiểu học thuộc thành phố Bắc Ninh nói chung. Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO ĐỘI NGŨ DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC KHÚC XUYÊN, THÀNH PHỐ BẮC NINH 1. Các định hướng đề xuất biện pháp Các biện pháp phải phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và phát triển GDĐT của phường Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và xu hướng phát triển giáo dục toàn ngành. Các biện pháp phải phù hợp với các giải pháp phát triển và đổi mới giáo dục phổ thông, phù hợp với định hướng đổi mới trong bồi dưỡng, phát triển đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học trong thời gian tới. Các biện pháp phải gắn chặt với các nội dung thể hiện trong bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học đã được xây dựng để khảo sát trên thực tế. Các biện pháp phải tôn trọng cơ sở lý luận của quản lý giáo dục, quản lý hoạt động GDĐT, hoạt động bồi dưỡng đội ngũ và các vấn đề về lý luận bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học.
- 14 Các biện pháp phải đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV dạy KNS cho HS tiểu học. Đó là phải đảm bảo xuất phát từ thực tế, cơ sở lý luận, thực tiễn rõ ràng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Bắc Ninh phù hợp với điều kiện thực tế của trường tiểu học Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh. 2. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp 2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của quản lý trường học. Bản chất của quản lý trường học là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường hướng vào hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến. Do đó, việc đảm bảo tính đồng bộ là nguyên tắc đầu tiên của ban lãnh đạo các nhà trường với hoạt động giảng dạy và sinh hoạt của GV trong nhà trường. Việc đề xuất các biện pháp phải xuất phát từ sự đồng bộ trong các khâu của quá trình quản lý bồi dưỡng như: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, xây dựng điều kiện để thực hiện, kiểm tra, đánh giá. Việc đề xuất phát triển, bồi dưỡng đội ngũ GV cần xử lý, tích hợp các khía cạnh như quy hoạch, xác định các chỉ tiêu về số lượng, cơ cấu, chất lượng, để từ đó xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ GV trong các nhà trường hợp lý và hiệu quả. Các biện pháp đưa ra cần có tính hệ thống, trước hết phải là biện pháp làm thay đổi về nhận thức, tư duy của cả cán bộ quản lý và GV theo tinh thần đổi mới; sau đó mới là nội dung, là hình thức bồi dưỡng và tổ chức thực hiện. Ngoài ra phải vận dụng theo những xu hướng đổi mới trong bối cảnh khoa học, kỹ thuật, công nghệ đang phát triển rất nhanh chóng hướng tới kinh tế tri thức và xã hội học tập. Mỗi biện pháp đề xuất đều có đầy đủ ba phần, bao gồm: mục đích, nội dung, điều kiện thực hiện và cách thức thực hiện. Trong thực tiễn, các biện pháp có tác động biện chứng lẫn nhau, quan hệ mật thiết, logic với nhau, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau. Sự đồng bộ trong biện pháp quản lý phải chú ý phối hợp chặt chẽ giữa việc quản lý hoạt động dạy học của
- 15 ban lãnh đạo các nhà trường với các thành viên tham gia vào việc bồi dưỡng GV của nhà trường. Chỉ khi đề xuất và thực hiện đồng bộ, hệ thống các biện pháp thì mới nâng cao chất lượng GV và khi đó chất lượng GDĐT toàn diện mới đạt hiệu quả thực thụ. Lúc đó mới thể hiện được sự thống nhất ý chí và hành động của tập thể các nhà giáo. 2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và phát triển Xuất phát từ quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, hệ thống các trường tiểu học đang trong quá trình đổi mới theo định hướng và yêu cầu của đổi mới giáo dục. Công tác bồi dưỡng GV đã tồn tại và cùng phát triển theo sự đổi mới của giáo dục tiểu học. Mặt khác, các nội dung, biện pháp và kỹ thuật bồi dưỡng cũng được hình thành dựa trên cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học và thực tiễn của công tác phát triển đội ngũ GV các trường tiểu học từ cơ quan quản lý các cấp đối với giáo dục. Thành tựu phát triển giáo dục tiểu học của thành phố Bắc Ninh trong giai đoạn vừa qua có sự đóng góp đáng kể của công tác bồi dưỡng GV. Điều đó cho thấy sự cần thiết của công tác này cũng như giá trị của những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn công tác bồi dưỡng đội ngũ GV của các nhà trường tiểu học. Tuy nhiên, trước những đổi mới do thực thi các mục tiêu của đổi mới giáo dục phổ thông, công tác quản lý bồi dưỡng GV cũng cần có thay đổi, phát triển. Những thay đổi và phát triển này là sự kế thừa những thành tựu của công tác bồi dưỡng từ những giai đoạn trước nhưng có sự bổ sung những yếu tố mới phù hợp với thực tế của các hoạt động giáo dục mà người GV dạy KNS phải đảm nhận trong hiện tại. Do đó các biện pháp phải có tính kế thừa, phát triển tôn trọng tính truyền thống, lịch sử. 2.3. Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp Các biện pháp được đề xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Bắc Ninh, đặc thù của của các trường tiểu học thành phố Bắc Ninh, phù hợp với nề nếp văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của địa phương. Tính đặc thù của cộng đồng dân cư và nguồn lực đầu tư cho GDĐT nói chung và cho phát triển đội ngũ GV tiểu học nói riêng. Nguyên tắc được đề xuất mang tính phù hợp sẽ giữ một vị trí quan trọng trong việc phát triển đội ngũ GV tiểu học. Để